Chẳng ai chụp film mà không biết tới Kodak, chẳng ai trong cuộc đời chụp film mà chưa chụp tới cuộn film Kodak nào. Kể cả tới ngày hôm nay, film Kodak Portra và Ektarchrome vẫn là một tượng đài của nhiếp ảnh film. Tôi muốn nói qua một chút về lịch sử của Kodak vấp ngã từ một đỉnh cao của công nghiệp nhiếp ảnh và đã gần như biến mất như thế nào.
Kodak (tên đầy đủ là Eastman Kodak Company) thành lập vào năm 1888 bởi George Eastman và Henry A. Strong. George Eastman là người phát minh ra máy Kodak Black Camera sử dụng film cuộn đầu tiên trên Thế giới.

Năm 1896 Kodak đứng số 1 Thế giới về cung ứng film và các vật tư nhiếp ảnh cho nền công nghiệp.
Năm 1897, Eastman tiếp tục phát minh ra máy ảnh folding đầu tiên.
Năm 1900 hãng phát minh ra máy ảnh Brownie nhỏ gọn cho thị trường đại chúng.
Năm 1902 Kodak phát minh ra máy tráng film thủ công không cần phòng tối, là tiền thân của tank tráng film ngày nay.

Năm 1920 hãng phát minh ra một module giúp người chụp có thể ghi chú và ngày tháng lên bản film, gọi là Kodak Autographic.

Năm 1932 ở tuổi 77, George Eastman sau 2 năm với nhiều chứng bệnh ở cột sống, khó khăn trong việc đi lại và trầm cảm vì đau đớn nên ông đã tự tử, thư tuyệt mệnh của ông để lại có ghi: ” To my friends, my works is done, why wait?”. Ông là người duy nhất được vinh danh bằng 2 ngôi sao trên Đại lộ danh vọng ở Mỹ cho những cống hiến và phát minh.

Tuy nhiên không vì thế mà Kodak sa sút, hãng vẫn chứng tỏ là một gã khổng lồ không ngừng phát triển và phát minh. Trong vòng 45 năm tiếp theo, Kodak liên tục phát minh ra:
– Film Kodakchrome huyền thoại vào năm 1935;
– Máy ảnh Starmatic dùng film 127 nhỏ như lòng bàn tay vào năm 1959;
– Máy ảnh Instamatic dùng film 126 và 110 vào năm 1963, máy là thành công lớn trong việc tiến tới thị trường nhiếp ảnh low-cost;
– Máy chiếu slide tự động xoay Kodak Carousel vào năm 1965.

Giống như gọi mọi xe máy là Honda ở Việt Nam những năm sau chiến tranh, ở Mỹ lúc này cái cảm xúc và cái việc chụp ảnh có một tên gọi riêng là Kodak Moment.
Kodak liên tục đi tới đỉnh của nhiếp ảnh chuyên nghiệp. Tuy nhiên có một thứ mà chính Kodak cũng không thể dung túng được, cũng là thứ dẫn tới hàng loạt sai lầm của Kodak – máy ảnh số.
Steve Sasson sau khi tốt nghiệp trường nghề kỹ thuật Brooklyn đã làm việc tại nhà máy Eastman. Người thầy và cũng là đồng nghiệp của anh là Gareth A Lloyd đã giao cho cậu thanh niên trẻ Sasson nhiệm vụ chế tạo một chiếc máy ảnh có khả năng lưu ảnh bằng cảm biến CCD (Charge Couple Device). Sasson đã thành công khi phát minh ra máy ảnh số đầu tiên trên Thế giới sử dụng cảm biến CCD, nặng gần 4kg sử dụng 16 cục pin thô, độ phân giải 0.01 Megapixel, ảnh được lưu trữ trên băng Cassette và mất 23s để hoàn thành việc chụp và lưu ảnh. Với sự hỗ trợ của A Lloyd, 2 người đã đăng ký bản quyền phát minh này.

Phát minh này ấn tượng với Kodak tới mức Kodak muốn lấp liếm chiếc máy này bằng mọi giá. Điều Kodak sợ nhất lúc này là mất đi 90% thị phần sản xuất film mà hãng đang nắm giữ. vào năm 1976 hãng không dám đối mặt với việc “tự mình ăn thịt mình” (corporate cannibalism) vốn là việc rất phổ biến với các doanh nghiệp lớn trong ngày nay. Tầm nhìn hạn hẹp này của Kodak đã được các hãng khác lấp chỗ trống.
Năm 1981 Sony đã ra mắt máy ảnh số đầu tiên của hãng là Sony Mavica (viết tắt của Magnetic Video Camera) sử dụng đĩa mềm 2″ để lưu ảnh (gọi là Mavipaks), có thể lưu tới 50 tấm ảnh màu.

Tiếp theo sau đó hàng loạt máy ảnh số cũng được các hãng khác ra đời như Canon Homic, Pentax Nexa, Sanyo VRC 100. Thị trường máy ảnh số tiến dần tới thời kỳ low-cost và phổ cập đại chúng.
Năm 1991, sau 14 năm kể từ khi Kodak đăng ký bản quyền phát minh của Steve Sasson, hãng mới chịu ra mắt chiếc máy ảnh số đầu tiên mang tên Kodak là Kodak Digital Camera System (DCS). Thực ra nó vốn là back số gắn vào một chiếc SLR thông thường để tận dụng các hệ máy film. Lúc này thị trường máy ảnh số đã bắt dầu bão hòa nên máy không đem lại nhiều lợi nhuận cho hãng. Thay vì tiếp tục không ngừng phát minh như hãng đã làm trong quá khứ với film, Kodak chọn tiếp tục bám trụ vào ngành công nghiệp đang chết là tiếp tục sản xuất film.

Năm 1996 Kodak đạt doanh thu 16 tỷ USD, công ty có giá trị 31 tỷ USD là doanh nghiệp có giá trị cao thứ 5 trên Thế giới. Để cứu vãn tình thế khi máy ảnh số lên ngôi, Kodak liên tiếp ra mắt các sản phẩm phục vụ nhiếp ảnh số như trong năm 2001, hãng ra mắt dòng máy ảnh số Easyshare với quảng cáo chỉ cần kết nối máy tính là có thể in được ảnh. Cũng trong năm này, Kodak mua lại một trang lưu trữ ảnh online và đổi tên thành Kodak Gallery.
Lúc này khi tất cả các sản phẩm phục vụ ảnh số đều thất bại, Kodak nhận ra người dùng không còn nhu cầu in ảnh lưu trữ như thời ảnh film nữa, họ muốn lưu trữ trong máy tính và chia sẻ cho bạn bè họ qua internet. Đây là lúc mà Myspace, Facebook, Instagram lấp chỗ trống.
Từ năm 2008 – 2011, trong các nỗ lực cuối cùng, Kodak bán dần các bản quyền phát minh, sáng chế, thu về 2 tỷ USD.
Năm 2010, Kodak đã tụt xuống vị trí thứ 7 trong ngành công nghiệp nhiếp ảnh, đứng sau các công ty châu Á xưa nay vốn kém cạnh hơn là Canon, Sony, Nikon. Lúc này cổ phiếu Kodak còn rẻ hơn cả một cuộn film Ektarchrome. Tới năm 2012 Kodak đăng ký bảo hộ phá sản, kết thúc một kỷ nguyên huy hoàng với nhiếp ảnh film.
Kodak vẫn tồn tại tới ngày nay nhưng chủ yếu là gia công cho các công ty khác như đóng gói, in ấn… Một nỗ lực dấn thân vào thị trường bitcoin bằng đồng KodakCoin cũng đã bị hủy bỏ vào năm 2018. Mảng sản xuất film với Kodak nhỏ không đáng kể, như những cố gắng lưu trữ lại một thời huy hoàng với sản xuất film.
Bài học ở đây cho những gã khổng lồ là không một ai có thể chối bỏ được sự phát triển. Sự phát triển luôn luôn là xu hướng của xã hội, ai cũng phải thích nghi với sự thay đổi này, thậm chí kể cả đồng nghĩa với việc cạnh tranh với chính bản thân công ty đó.
No Comments